Chỉ cách khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng chưa đến chục
cây số, nhưng ở xóm Gò, ấp 1, xã Phong Phú, huyện Bình Chánh, TP.Hồ Chí
Minh là một không gian hoàn toàn khác.
Những ngôi nhà mái lá giữa xóm Gò, xung quanh là ruộng bồn bồn - nguồn thu nhập chính của người dân.
Đối lập với sự phồn
hoa, với những khu nhà cao tầng, những sân golf, tenis… là một xóm nghèo
lụp xụp bên bãi rác Đa Phước ngày đêm hôi thối. Đã thế, do không có
đường ra bên ngoài nên bao năm nay, xóm Gò như một ốc đảo bị lãng quên…
Mười năm ngóng một cây cầu
Đón tôi ở “cổng” vào
xóm Gò là người đàn ông có cái tên ngồ ngộ Bảy Cu đang ngồi trên xuồng
chờ chở khách với chai rượu trên tay. Nhánh sông rộng chưa đến 10 mét
nhưng thiếu chiếc xuồng này dân xóm Gò coi như nội bất xuất, ngoại bất
nhập.
“Không có ông Bảy Cu
thì gay, có lần sắp nhỏ đi học về, đứng cả đám bên mé sông, ổng đi uống
rượu có ai chở đâu. Trời tối mịt, mưa to, sắp nhỏ ướt hết, có đứa khóc
thét lên. Tui ngồi nhà tự nhiên nóng ruột, đội mưa nhờ bà Nhị, nhà gần
bờ sông chèo xuồng ra đón sắp nhỏ về” - chị Kiên, người dân xóm Gò cùng
lên thuyền với tôi kể. Chị tiếp: “10 năm nay bọn tui mong Nhà nước xây
cho cây cầu. Hồi đầu năm, tui nghe nói cầu sắp xây và bằng giá nào phải
khánh thành trước năm học mới cho sắp nhỏ đi học. Tui ngóng mỏi cổ muốn
chết. Chừ sắp vào năm học rồi mà chưa thấy đặt cục gạch nào...”.
Người dân xóm Gò mới có
điện và được dùng nước sạch cách đây vài năm. “Mùi văn minh” đã thoảng
qua ốc đảo nhưng cuộc sống nơi đây vẫn còn rất lạc hậu so với bên ngoài.
Không có cầu nên chẳng nhà nào mang được đá, gạch, ximăng... để xây lấy
ngôi nhà cho khang trang. Con đường đất nhỏ xíu, đang vào mùa mưa bùn
sình nhầy nhụa được đặt tên là Xương Cá, cứ cách vài trăm mét mới có
đường mòn... “xương dăm” rẽ vào một ngôi nhà mái lá. Tôi phải cởi dép,
đi chân đất, xắn quần, bùn bắn lên tận đầu gối. Theo thói quen như ở bên
“thành phố”, tôi gởi chiếc xe máy cà tàng trước hiên nhà chị Kiên rồi
nhờ chị trông hộ.
Chị cười lớn: “Ở đây
nếu có trộm cũng chịu không lấy nổi cái xe ra khỏi xóm Gò đâu”. Chị
khoe: “Nhà tui có 2 chiếc. Một chiếc xịn hơn để bên kia sông, gửi người
ta trông, khi nào ra phố đi chợ thì dùng. Mỗi tháng gần trăm ngàn đồng
tiền gửi xe. Một chiếc để bên này, thỉnh thoảng đưa sắp nhỏ ra bờ Cống
Lớn đi học. Nói là đưa chứ trời mưa riết như thế này chỉ có nước để nó
ngồi trên xe, ông xã dắt xe, mình đẩy”. Tôi hỏi vậy chứ trong xóm có em
nào vào đại học không. Chị chỉ tay về ngôi nhà có vẻ “khá” trong xóm,
ngôi nhà duy nhất lập bằng mái tôn, nói: “Đó, nhà bà Tư Linh đó. Nghe
đâu thằng con bả học cao lắm. Cao nhất xóm rồi, năm nay nó học lớp 11”.
Tôi đi quanh xóm Gò cả
buổi nhưng chẳng thấy mống thanh niên nào. Thắc mắc thì chị Kiên cười
buồn: “Đám thanh niên lớn lên không chịu nổi cái buồn, cái nghèo của xóm
Gò nên bỏ lên thành phố làm công nhân hết rồi. Ở mãi đây đời kiếp nào
mới lấy được vợ. Ai đâu buổi tối muốn đến nhà cô nào chơi lại xách đèn
pin đi hàng cây số. Xung quanh sông nước, rắn rít thế này cũng chẳng có
chỗ nào hẹn hò. Mé sông thúi hoắc ai thèm ngồi”. Lại theo thói quen, tôi
hỏi chị Kiên có quán tạp hóa hay quán ăn nào để kiếm cái lót dạ bữa
trưa.
Chị lắc đầu ái ngại:
“Làm khỉ khô gì có quán xá hả cô! Ở đây một tuần “sang sông” đi chợ một
lần, mua toàn bộ thịt thà rau củ để ăn dần. Đất xấu, cũng chẳng trồng
được cây gì khác ngoài bồn bồn nên đến rau tươi cũng chẳng có”. Chỉ cho
tôi vài luống mía khô đét, lá rũ xuống trước nhà, chị thở dài:“ Đó, thời
tiết mưa mưa nắng nắng thế này, đến mía còn không sống nổi...”.
Bãi rác Đa Phước rộng 78ha, trung bình mỗi ngày tiếp nhận hàng ngàn tấn rác. Chính
thức nhận rác từ cuối năm 2007, theo tính toán của phòng Xử lý Sở Tài
nguyên Môi trường TP.Hồ Chí Minh, Đa Phước sẽ giải quyết được mối lo về
rác của toàn thành phố trong vòng 21 năm, nhưng lại trở thành... mối
nguy cho 108 hộ dân xóm Gò. “Dân tui đang than trời bởi từ ngày rác đổ
về đây, môi trường nước và không khí bị ô nhiễm trầm trọng”, chị Kiên
nói.
Hơn 13 giờ, nắng gay
gắt, mùi thối từ con rạch bốc lên sặc sụa, nước nổi bọt vàng đục nhưng
bà Huỳnh Thị Nhị vẫn lội bì bõm nhổ bồn bồn. Bà cầm con cá chết chuyển
màu trắng nhởn, trương phềnh trên mặt nước lên, chua chát nói: “Đấy cô
xem, cá còn chết thế này đây”. Nhà bà Nhị ở sát mé sông Rạch Chiếu, đối
diện với bãi rác Đa Phước, là nạn nhân đầu tiên của sự ô nhiễm.
Bà kể: Trước đây bà vẫn
dùng nước sông ăn uống tắm rửa nhưng vài năm nay, từ ngày bãi rác Đa
Phước đi vào hoạt động, nước rỉ rác chảy ra rạch, bà không dám dùng nước
sông nữa, kể cả rửa chân vì chỉ nhúng nước là đã ngứa ngáy khó chịu.
“Mấy bữa nước lớn, gió thổi từ bển qua là bên này dân hứng hết mùi. Nhà
tui cứ tầm 3 giờ chiều là ruồi muỗi bắt đầu bu đầy. Tui phải tranh thủ
nấu cơm. Có hôm 5 giờ, ruồi nhiều quá, cả nhà phải chui vô mùng mà ăn,
sợ nhai trúng ruồi”.
Không có cầu, hằng ngày, người dân chỉ biết trông cậy vào ông Bảy Cu chở qua rạch Cống Lớn.
Hết dịch ruồi đến nạn muỗi
Trong căn nhà nhờ nhờ
tối của bà Nhị, mấy chiếc giường lúc nào cũng phủ mùng. Thằng Phương
cháu bà ngồi trong mùng coi tivi. Trong mùng bà để 2 cái quạt máy bật số
lớn nhất để đuổi muỗi, 1 cái vợt bắt muỗi. Bà Nhị ngồi dựa cột nhà tiếp
chuyện với tôi, tay quạt liên tục vì muỗi chích.
Tôi đem những chuyện
mắt thấy tai nghe ở xóm Gò đến gặp ông Mai Thanh Điền, cán bộ xã Phong
Phú, nhưng chỉ nhận được những tiếng thở dài: “Năm 2010, lúc bãi rác
chưa hoàn thành hệ thống che đậy thì xảy ra dịch ruồi. Người dân phải
chui vô mùng ăn cơm, ruồi bu đen chỉ chực có cái lỗ nào hở là túa vào
mùng. Sau khi chúng tôi phun 2 đợt thuốc và bên bãi rác hoàn thành lớp
đậy rác thì bây giờ ruồi đã đỡ nhưng nảy sinh nạn muỗi. Bây giờ tầm 7
giờ tối là người ta phải trèo vô mùng. Tôi nghe bên Cty Đa Phước có nói
đến dự án hành lang cây xanh để giảm ô nhiễm từ bãi rác. Xóm Gò cũng
thuộc một phần của dự án. Nhưng tôi nghe lâu rồi mà chưa có động tĩnh gì cả”.
Bao giờ cho hết “dự kiến”?
Đến gặp ông Nguyễn Hữu
Nghiệp - Chủ tịch xã Phong Phú thì thông tin cũng chẳng vui hơn: “Cầu
thì coi như đã có. Xã đã lên kế hoạch và bàn giao việc thi công cây cầu
cho bên Huyện đoàn huyện Bình Chánh. Còn chuyện tác động môi trường từ
bãi rác Đa Phước, chúng tôi cũng đang phối hợp với phòng Tài nguyên Môi
trường kiểm tra mức độ ô nhiễm nước và không khí. Mới cách đây 2 tuần,
phòng tài nguyên xuống xóm Gò lấy mẫu nước. Phải chờ kết quả mới có biện
pháp được”.
Ông Lê Hoàng Dũng -
Thường vụ Huyện đoàn huyện Bình Chánh, phụ trách thi công dự án cầu bắc
qua xóm Gò, giải thích cặn kẽ hơn: “Vốn để xây cầu dự kiến khoảng 4,3 tỉ
đồng được chia ra làm 3 phần. Một từ ngân sách nhà nước, một từ nguồn
vốn của đoàn viên thanh niên, một từ quyên góp từ nhân dân, các tổ chức
xã hội. Tuy nhiên đến nay, phần vốn quyên góp từ nhân dân và các tổ chức
mới chỉ có được 50%, còn thiếu khoảng vài trăm triệu đồng nữa. Dù vậy,
chúng tôi vẫn quyết định khởi công trong năm nay, vừa xây vừa kêu gọi
đóng góp thêm”.
Ông Dũng hình dung:
Người dân xóm Gò sẽ có một cây cầu dự kiến rất đẹp dài 60 mét, dự kiến
hoàn thành trong năm nay và dự kiến kinh tế xóm Gò sẽ rất phát triển khi
cây cầu hoàn thành... Tôi mang những “dự kiến” của ông Dũng về kể thì
bị chị Kiên mắng: “Chúng tôi không cần đẹp, không cần hoành tráng. Tiền
ít thì làm cầu nhỏ lại. Chúng tôi chỉ cần nhanh để có phương tiện mà đi
lại. Chuyện chúng tôi sắp có một cây cầu, sắp giảm được ô nhiễm từ dự án
hành lang cây xanh chi đó nghe miết đến nhàm rồi...”.
Hôm ấy bà Nhị tình
nguyện lấy xuồng chở tôi về thành phố. Thuyền chúng tôi ra giữa rạch
cũng là lúc bên kia, khu đô thị Phú Mỹ Hưng đã lấp lánh ánh đèn. Bà Nhị
chèo xuồng mà mắt cứ nhìn xa xăm về phía Phú Mỹ Hưng. Tưởng bà đang “mơ
xa” nhưng không phải. Bà bảo:
“Tôi nào mơ ước được ở trong cái khu sang trọng ấy. Bây giờ tôi chỉ mơ
được một ngày đi qua cầu, được ăn một bữa cơm không phải ngồi trong mùng
tránh muỗi, vậy thôi...”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét